TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ CẤP NƯỚC - SAWACO TRAINING CENTER
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.



 
Trang ChínhTrang Chính  Trang TinTrang Tin  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  

 

 THƯ BỐ MẸ GỬI CHO CÁC CON !

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 67

THƯ BỐ MẸ GỬI CHO CÁC CON ! Empty
Bài gửiTiêu đề: THƯ BỐ MẸ GỬI CHO CÁC CON !   THƯ BỐ MẸ GỬI CHO CÁC CON ! Icon_minitimeTue Oct 11, 2011 12:35 am

(VTC News) - “Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu cho bố mẹ”.

Mấy ngày nay, trên các trang mạng xã hội, các diễn đàn xôn xao bàn tán về một bức thư của cha mẹ gửi đến những đứa con thân yêu của mình. VTC News xin trích lại bức thư giản dị nhưng khiến những người làm con phải nhìn nhận lại chính mình.

“Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu cho bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống rớt vung vãi... Nếu như bố mẹ gặp khó khăn ngay cả đến cái ăn cái mặc... Xin con hãy bao dung!

Con hãy nhớ những ngày, giờ mà bố mẹ đã trải qua với con, để dạy cho con bao điều lúc thuở bé.

Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì đừng bao giờ cắt đứt lời bố mẹ... mà hãy lắng nghe!

Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm cho đến khi con đi vào trong giấc ngủ... và bố mẹ đã làm vì con.

Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên cho đó là điều xấu hổ.

Con hãy nhớ... lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải viện cớ bao lần để vỗ về con trước khi tắm.

Khi con thấy sự ít hiểu biết của bố mẹ trong đời sống văn minh hiện đại ngày hôm nay, đừng thất vọng mà hãy để bố mẹ thời gian để tìm hiểu.

Bố mẹ đã dạy dỗ con bao điều... từ cái ăn, cái mặc cho đến bản thân và phải biết đương đầu với bao thử thách trong cuộc sống.

Nếu như bố mẹ có đãng trí hay không nhớ hết những gì con nói... hãy để bố mẹ đôi chút thời gian để suy ngẫm lại và nhỡ như bố mẹ không tài nào nhớ nổi, đừng vì thế mà con bực mình mà tức giận... vì điều quan trọng nhất đối với bố mẹ là được nhìn con, đưọc gần bên con và được nghe con nói, thế thôi!

Nếu như bố mẹ không muốn ăn, đừng ép bố mẹ!... vì bố mẹ biết khi nào bố mẹ đói hay không.

Khi đôi chân của bố mẹ không còn đứng vững như xưa nữa... hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày nào bố mẹ đã tập tềnh con trẻ những bước đi đầu đời.

Và một ngày như một ngày sẽ đến, bố mẹ sẽ nói với con rằng... bố mẹ không muốn sống, bố mẹ muốn từ biệt ra đi.

Con đừng oán giận và buồn khổ... vì con sẽ hiểu và thông cảm cho bố mẹ khi thời gian sẽ tới với con.

Hãy cố hiểu và chấp nhận, đến khi về già, sống mà không còn hữu ích cho xã hội mà chỉ là gánh nặng cho gia đình!... và sống chỉ là vỏn vẹn hai chữ "sinh tồn".

Một ngày con lớn khôn, con sẽ hiểu rằng, với bao sai lầm ai chẳng vướng phải, bố mẹ vẫn bỏ công xây dựng cho con một con đường đi đầy an lành.

Con đừng nên cảm thấy xót xa buồn đau, đừng cho rằng con bất lực trước sự già nua của bố mẹ.

Con chỉ cần hiện diện bên bố mẹ để chia sẻ những gì bố mẹ đang sống và cảm thông cho bố mẹ, như bố mẹ đã làm cho con tự khi lúc con chào đời.

Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi vào chiều...

Hãy giúp bố mẹ trong phút sống còn lại trong yêu thương và nhẫn nại...

Cách duy nhất còn lại mà bố mẹ muốn cảm ơn con là nụ cười và cả tình thương để lại trong con.

Thương con thật nhiều...

Bố mẹ..."

Tác giả: PIERRE ANTOINE (Việt kiều Pháp)

Khởi Nguyên (sưu tầm)
Về Đầu Trang Go down
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 67

THƯ BỐ MẸ GỬI CHO CÁC CON ! Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: THƯ BỐ MẸ GỬI CHO CÁC CON !   THƯ BỐ MẸ GỬI CHO CÁC CON ! Icon_minitimeTue Apr 24, 2012 1:21 pm

Ngheandost - Khoa học xã hội và nhân văn
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với tinh hoa Nho giáo
Trước hết cần phân biệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với đạo đức Hồ Chí Minh. Khi nói đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta chỉ nói đến các hành vi ứng xử mẫu mực, hết sức giản dị, trong sáng trong hoạt động thực tiễn của Người. Còn khi nói tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta phải đề cập cả một hệ thống quan điểm, bao gồm nhiều nội dung Người lựa chọn từ các hệ thống tư tưởng đạo đức từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây để vận dụng sáng tạo phù hợp với dân tộc mình, thời đại mình. Bài viết này chỉ trình bày một số suy nghĩ về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với tinh hoa Nho giáo.

Trước hết cần phân biệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với đạo đức Hồ Chí Minh. Khi nói đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta chỉ nói đến các hành vi ứng xử mẫu mực, hết sức giản dị, trong sáng trong hoạt động thực tiễn của Người. Còn khi nói tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta phải đề cập cả một hệ thống quan điểm, bao gồm nhiều nội dung Người lựa chọn từ các hệ thống tư tưởng đạo đức từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây để vận dụng sáng tạo phù hợp với dân tộc mình, thời đại mình. Bài viết này chỉ trình bày một số suy nghĩ về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với tinh hoa Nho giáo.

1. Để hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, cần nắm được nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là định nghĩa của Đảng ta: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa của nhân loại...” (Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001, tr.83)

Cần phải chú ý đến chính quan điểm của Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định ngay rằng: Hồ Chí Minh không phải là người sáng tạo ra một học thuyết, một chủ nghĩa, một tôn giáo mới. Nhưng rời quê hương ra đi, bôn ba khắp năm châu, bốn biển, Người luôn luôn chú ý học tập, kế thừa tinh hoa văn hóa của nhân loại để tìm con đường giành độc lập cho dân tộc mình; giành tự do, hạnh phúc cho đồng bào mình.

Ngay từ năm 1924, trong bài Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã có cách nhìn táo bạo về chủ nghĩa Mác: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu, mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại... Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được ... Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”(1)

Trong Hồ Chí Minh truyện, bản dịch Trung văn của Trương Niệm Thức, do Nxb Bát Nguyệt in năm 1949, ở trang 92 có đoạn: “Có người hỏi ông Nguyễn: Ông là người thế nào, theo chủ nghĩa Cộng sản hay theo chủ nghĩa Tôn Dật Tiên? Ông Nguyễn trả lời: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê-su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội... Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy. Tôi chính là tôi ngày trước: một người yêu nước...”(2)

Câu trả lời của ông Nguyễn chính là câu tóm tắt nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ lòng yêu nước, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tu dưỡng mình theo phép tu thân của Khổng Tử, tiếp nhận tinh thần bác ái của Giê-su, học tập phương pháp làm việc biện chứng của Mác và xem xét thực tế Việt Nam qua chính sách của Tôn Dật Tiên. Như vậy Người đã kế thừa mọi tinh hoa trong di sản chung của nhân loại rồi hoán cải chúng, phát triển chúng, kết hợp chúng lại trong một hệ tư tưởng mới, để phục vụ mục đích giành độc lập cho Tổ quốc mình; dân chủ, tự do, hạnh phúc cho đồng bào mình.

2. Trở lại tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo GS. Phan Ngọc, học thuyết Mác đã chỉ ra cho giai cấp vô sản thế giới con đường cách mạng giành lại phần giá trị thặng dư mà họ làm ra nhưng bị giai cấp tư sản cướp mất. Mác và Enghen chỉ nói đến quyền lợi kinh tế mà không nói chuyện tu dưỡng đạo đức. Đó là cách nhìn kinh tế luận của người phương Tây. Còn các nhà cách mạng phương Đông đều nhìn cách mạng là một bộ phận tạo thành nhân cách con người, một bộ phận của văn hóa. Con người cách mạng phương Đông là con người nhân cách luận, đánh giá người khác theo nhân cách, không phải theo lý thuyết hay theo quyền lợi kinh tế. Chính vì chú ý đến đặc điểm này, trong bức thư gửi Pêtrôp, Tổng Thư ký bộ phương Đông của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc nhắc nhở: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(3). Tiếp đó, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, tập hợp các bài giảng trình bày tại lớp huấn luyện cán bộ Việt Nam ở Quảng Châu (1925 - 1927), Người mở đầu bằng một câu của Lênin rút trong quyển Làm gì?: “Không có lý luận kách mệnh thì không có vận động kách mệnh. Chỉ có theo lý luận kách mệnh tiền phong, đảng kách mệnh mới làm nổi kách mệnh tiền phong”. Ngay sau đó, Người không nói về phương pháp biện chứng, phân tích giai cấp, học thuyết thặng dư giá trị như các sách giáo khoa cộng sản phương Tây, mà nói ngay đến Nhân cách luận cách mạng: “Tư cách một người kách mệnh...”

3. Để viết phần Tư cách một người kách mệnh, cũng như để tự rèn luyện mình và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho các nhà cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và học tập Khổng Tử. Khổng Tử là một nhà đạo đức lớn. Ông truyền bá thuyết Nhân chính (một nền chính trị lấy đạo nhân làm gốc). Ông là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên của nhân loại biết tập trung sự chú ý của con người vào những vấn đề thuần túy của con người, là một trong những bậc thầy lớn nhất đã giúp loài người tiến lên thành “người”. Ông là nhà nhân văn chủ nghĩa đầu tiên theo đúng nghĩa của nó! Ở trên ta đã thấy Hồ Chí Minh đặt Khổng Tử ngang hàng với Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên. Người còn gọi Khổng Tử là:“Đức Khổng Tử vĩ đại”. Trong các bài nói, bài viết của mình, Hồ Chí Minh trích dẫn nguyên văn hoặc mượn ý Khổng Tử và các môn đồ gấp nhiều lần trích dẫn ý kiến của Mác, Enghen, Lênin. Chỉ riêng những câu nói về tu dưỡng đạo đức, đã có thể thấy Người mượn ý rất nhiều, đôi khi trích dẫn nguyên văn. Chẳng hạn:

- “Tăng Tử nói: “Kẻ sĩ cần phải có chí khí rộng lớn và cương nghị. Là vì gánh thì nặng mà đường thì xa...” (Luận ngữ - Thái Bá). Hồ Chí Minh viết: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang”(4).

Tu dưỡng đạo đức là một quá trình công phu. Khổng Tử nói: “Bậc quân tử như người thợ làm đồ ngà, cần phải cắt, phải cứa; như người thợ chuốt ngọc, cần phải dùi, phải mài” (Luận ngữ - Học nhi). Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống... Cũng như ngọc càng mài, càng sáng, vàng càng luyện, càng trong”(5)

Khổng Tử và Hồ Chí Minh đều có nếp sống mẫu mực. Khổng Tử nói: “ Nếu tự mình giữ theo chính đạo, thì chẳng đợi ra lệnh dân cũng ăn ở theo chính pháp. Còn nếu như tự mình chẳng giữ theo chính đạo thì dẫu ra lệnh buộc dân theo, dân cũng không theo” (Luận ngữ - Tử Lộ). Hồ Chí Minh viết: “Tự mình phải chính trước mới giúp người khác chính. Mình không chính mà muốn người khác chính là vô lý”(6). “Mình trước hết phải siêng năng trong sạch mới bảo người ta trong sạch siêng năng được”(7) v.v...

Mạnh Tử nêu cao khí phách của bậc trượng phu: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Đằng Văn Công - hạ). Trong bài phát biểu nhân lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam tại Việt Bắc (3 - 1951), Hồ Chí Minh đã nhắc lại nguyên vẹn lời đó của Mạnh Tử và Người dịch như sau: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”.

Như vậy, Hồ Chí Minh đã nhất trí với Khổng - Mạnh nhấn mạnh vai trò đạo đức, nhấn mạnh sự tu dưỡng đạo đức của người quân tử xưa và người cán bộ cách mạng ngày nay.

Nhưng cần lưu ý: đạo đức của người quân tử xưa là đạo đức cũ; đạo đức của người cán bộ cách mạng ngày nay là đạo đức mới. Theo Hồ Chí Minh: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngẩng lên trời...”(Cool

4. Dùng lại khái niệm Khổng - Mạnh nhưng Người đã cấp cho nó một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ. Nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Nho giáo là luân thường. Luân có 5 điều (ngũ luân), trong đó có 3 điều lớn là tam cương, tức là 3 mối quan hệ: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ. Nếu rút gọn một lần nữa thì chỉ còn hai: vua - tôi, cha - con, trong đó nghĩa của bầy tôi đối với vua biểu hiền bằng chữ Trung; đạo của con đối với cha biểu hiện bằng chữ Hiếu. Trung Hiếu được mọi kẻ sĩ Việt Nam, Trung Hoa xưa tuyệt đối tuân thủ:

Bui một tấc lòng trung mấy hiếu/ Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen (Nguyễn Trãi). Khái niệm Trung Hiếu được Hồ Chí Minh thay vào nội dung mới khác về chất: Trung với nước, hoặc Trung với Đảng; Hiếu với dân. Người giải thích chữ Hiếu: “Hiếu là hiếu với nhân dân, ta thương cha mẹ ta mà còn phải thương cha mẹ người, phải làm cho mọi người đều biết thương cha mẹ”(9)

Ngũ thường (năm nét đức hạnh hằng xuyên) của Nho giáo là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Thật ra, mới đầu Khổng Tử chỉ nêu ra ba đức hạnh: Trí, Nhân, Dũng. (Trí, Nhân, Dũng, tam giả, thiên hạ chi đạt đức dã). Từ ba đức , Mạnh Tử chuyển thành: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Đổng Trọng Thư thời Hán bổ sung thêm chữ Tín nữa gọi là ngũ thường. Hồ Chí Minh sử dụng nguyên vẹn ba chữ của Khổng Tử, một chữ của Mạnh Tử, và thêm vào chữ Liêm mà xưa không ai đặt vào ngũ thường cả, thành ra: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.

Nhưng điều quan trọng hơn rất nhiều là Người đã cấp cho các khái niệm này những ý nghĩa khác hẳn. Chẳng hạn chữ Nhân, hạt nhân cơ bản của Nho giáo. Nhân là gì? Gần 30 thế kỷ đã trôi qua nhưng người ta vẫn còn tranh luận về khái niệm này. Tuy vậy, cũng có thể nói gắn gọn mà không sợ xa đề: Nhân là lòng yêu thương con người và là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở lòng yêu thương, tôn trọng con người. Còn theo Hồ Chí Minh: “Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền”(10).

Ở một chỗ khác, Người lại giải thích: “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(11). Ở đây Hồ Chí Minh đã dùng khái niệm Dân để định nghĩa khái niệm Nhân. Mà Nhân và Dân là hai khái niệm quen thuộc của Nho giáo. Khổng Tử chưa coi trọng Dân. Nhưng Mạnh Tử thì nói: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Tận tâm - hạ). Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc đã dịch câu này trong một bài báo viết cho Tạp chí Cộng sản (tiếng Pháp): Lợi ích của nhân dân là trước hết, thứ đến là lợi ích của quốc gia, còn lợi ích của vua là không đáng kể. Như vậy, Nhân, Dân, hay Nhân dân của Hồ Chí Minh đều là các khái niệm mác - xít.

5. Bình sinh Khổng Tử là người “Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” (Học không biết chán, dạy không biết mỏi). Ông là nhà giáo dục lớn, nhà văn hóa lớn có công to lớn xây dựng một nền văn hóa dựa trên học thức, và một bộ máy nhà nước từ trên xuống dưới bao gồm những nhà trí thức. Bình sinh Hồ Chí Minh cũng là người hiếu học và hết sức coi trọng giáo dục nói riêng và văn hóa nói chung. Ngay sau ngày tuyên bố độc lập, Người đã nêu khẩu hiệu chống giặc dốt ngang hàng với khẩu hiệu chống giặc đói, ngang hàng với khẩu hiệu chống giặc ngoại xâm trong bối cảnh giặc đói vừa giết hại hơn 2 triệu người và giặc ngoại xâm đang đặt dân ta trước họa sống còn của Tổ quốc.

Khi học tập, phấn đấu để đạt đạo người ta có niềm vui cực lớn ngay trong lòng mình, nên Khổng Tử nói “Sớm nghe đạo, chiều chết cũng cam”. Hồ Chí Minh thì trả lời các nhà báo: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(12)

Cả Khổng Tử và Hồ Chí Minh đều dạy: học đi đôi với hành, lời nói đi đôi với việc làm. Rất nhiều vị có chức, có quyền ngày nay thường nói một đằng, làm một nẻo, làm cho dân chúng khủng hoảng niềm tin!

Hồ Chí Minh thì trước sau như một, nói và làm là một! Xin dẫn lời bà Xpenxơn (Josephine Spenson) trình bày trong cuộc hội thảo về “Hồ Chí Minh, danh nhân văn hóa thế giới”:

“Tôi là nhà sử học đã lật ra những trang ghi của các nhà chính khách mỗi khi đến tham quan chiêm ngưỡng tượng Thần Tự Do. Nguyễn Tất Thành cũng đến Nữu Ước, đến tượng Thần Tự Do, cũng ghi vào sổ lưu niệm. Nguyễn Tất Thành cũng là khách như các nhà chính khách. Trong quyển sách đó, chính khách nào cũng chiêm ngưỡng ngôi sao tỏa sáng trên vòng nguyệt quế tượng Thần Tự Do...ca ngợi hết lời. Duy có Nguyễn Tất Thành là người đến tượng Thần Tự Do & nhìn xuống chân Thần Tự Do. Người ghi: “Ánh sáng trên đầu Thần Tự Do tỏa sáng trời xanh, còn dưới chân tượng Thần Tự Do này thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người phụ nữ đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng, bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc, bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với người nam giới?”. Duy có Nguyễn Tất Thành nhìn xuống chân tượng Thần Tự Do, nhìn số phận con người, không chiêm ngưỡng hào quang trên tượng Thần Tự Do. Chính vì thế tôi tìm tới con người này, xem nói và làm có tương phản không? Hồ Chí Minh quả thật nói và làm đi đôi. Tôi đã đến nhà của Người, lục tìm của riêng của Người. Người không có của riêng. Rất là lạ. Chính khách nào lên cầm quyền đều ra sắc lệnh quyền bình đẳng cho phụ nữ, nhưng khi sắc lệnh ký xong thì ban đêm họ đi nhà thổ, họ phát triển kỹ nghệ đàn bà. Thậm chí một vị Tổng thống có 3 - 4 tình nhân. Thành ra người ta nói một đằng làm một nẻo. Duy có Nguyễn Tất Thành nói điều đó khi mình còn lầm than. Khi mình làm Chủ tịch nước và khi Người qua đời trên giường Người vẫn vắng hơi ấm đàn bà”(13)

6. Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình Nho học xứ Nghệ. Trong con người Hồ Chí Minh có một vị chân Nho, thậm chí có người nói: một vị chân Nho xứ Nghệ (Nguyễn Đình Chú)(14).Người đã sử dụng sáng tạo một số nhân tố hợp lý trong tư tưởng đạo đức Nho giáo, cũng như Người đã sử dụng rất tài tình tinh hoa của Phật giáo và của tư tưởng Lão Trang; lòng nhân ái của Giê- su; tinh hoa của tư tưởng đạo đức phương Tây và tư tưởng Mác - Lênin kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống đạo đức tốt đẹp của văn hóa dân tộc để xây dựng nên tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh.



Tài liệu tham khảo

Hồ Chí Minh Toàn tập (Xuất bản lần thứ hai), Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995, T1, tr.464 - 469.

Dẫn lại theo Phan Ngọc, Tư tưởng Hồ Chí Minh đỉnh cao của văn hóa Việt Nam trong sách Bản sắc văn hóa Việt Nam Nxb Văn học, H.2002, tr429 - 430

Phan Ngọc, Bản sắc Văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.446 .

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Sự thật, H.1980, T8, tr.236.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T8, tr.248

Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T5, tr.247.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T6, tr.387, 388.

Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb QĐND, H.1962, tr.124.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Sdd, T5, tr.243.

(10) (11) Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo dục, H.1990, tr.64, 155.

(12), (13) Dẫn lại theo Phan Ngọc, Phong cách sống của Bác trong sách: Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb Thanh niên, H.2000, tr.276, 294, 295.

(14) Xem thêm: Hồ Sĩ Hùy, Từ góc nhìn văn hóa xứ Nghệ, suy nghĩ thêm về đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc, Vinh, 5, 2007, tr.108 -112. Đăng lại trong Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh, Số 129, 4/2009, tr2 - 4.



Th.s Hồ Sỹ Huỳ, Khoa Lịch sử, ĐH Vinh
Về Đầu Trang Go down
 
THƯ BỐ MẸ GỬI CHO CÁC CON !
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ CẤP NƯỚC - SAWACO TRAINING CENTER :: Thông báo chung-
Chuyển đến